Trong đời sống có những tình huống pháp lý vô cùng “éo le” thường xuyên phát sinh đặc biệt là liên quan đến quyền sở hữu tài sản. Tại một vụ việc thực tế, anh P và chị T sống chung như vợ chồng từ năm 2017 nhưng không đăng ký kết hôn. Chị T góp tiền cho anh P mua nhà đất và để anh P đứng tên trên sổ đỏ. Sau một thời gian chung sống không hòa hợp cả hai xảy ra tranh chấp, chị T muốn đòi lại số tiền đã góp vốn thì có được không? Sau đây là góc nhìn pháp lý của chúng tôi về vấn đề này.
1. Hôn nhân không đăng ký thì tài sản thuộc về ai?
Theo quy định tại Nghị quyết 35/2000 và hướng dẫn cụ thể tại mục 1 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Còn đối với trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn thì theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, họ không được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp.
Đối chiếu với tình huống thực tế trên, vì anh P và chị T sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn từ năm 2017 nên không được pháp luật thừa nhận. Điều này dẫn đến việc không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng giữa anh P và chị T theo Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
Như vậy, căn nhà không được coi là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo Điều 38 Luật HNGĐ 2014 giữa anh P và chị T. Đồng thời, trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện tại không có tên chị T và cũng không có bất kỳ giấy tờ chứng minh việc hai bên đã cùng góp vốn mua chung nhà đất. Do đó, về mặt pháp lý thì anh P có quyền định đoạt căn nhà do mình đứng tên, nếu không may xảy ra tranh chấp tài sản, chị T có thể gặp nhiều khó khăn và bất lợi trong trường hợp này.
2. Giải quyết thế nào khi xảy ra tranh chấp?
Theo Điều 16 Luật HNGĐ 2014 quy định “Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.” Theo đó, khi xảy ra tranh chấp các bên có thể tự thỏa thuận và đàm phán để giảm bớt sự mâu thuẫn cũng như mất mát không đáng có.
Trong trường hợp khi hai bên không thể tìm được tiếng nói chung, chị T có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Việc khởi kiện có thể giúp chị T đòi lại quyền lợi về tài sản đã góp vốn của mình. Ngoài ra, chị T cần thu thập các chứng cứ cần thiêt để chứng minh việc mình đã góp vốn vào việc cùng mua nhà đất.
3. Những điều cần lưu ý
Viêc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn dẫn đến không tồn tại quan hệ hôn nhân giữa hai bên. Do đó, để tránh xảy ra tranh chấp về tài sản như trường hợp trên cần lưu ý những vấn đề sau:
- Yêu cầu ghi nhận quyền sở hữu chung trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc ghi nhận này sẽ giúp nạn đảm bảo quyền và lợi ích của mình đối với tài sản mà bạn sở hữu.
- Yêu cầu đối phương ký Hợp đồng chuyển nhượng phần diện tích đất tương ứng với số tiền bạn góp để mua nhà đất.
- Ngoài ra, các bên cũng có thể làm văn bản thỏa thuận ghi nhận việc góp vốn cùng mua đất, cùng ký tên vào văn bản thỏa thuận và nên nhờ người làm chứng cùng ký để chứng minh việc góp vốn.
Việc nam và nữ sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn là điều pháp luật không cấm và cũng không vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, việc cẩn trọng và bảo vệ quyền lợi của mình là điều vô cùng cần thiết để tránh những rủi ro pháp lý có thể xảy ra.
Đỗ Hoàng Phương Thy
***
Bài viết này nhằm mục đích cung cấp thông tin và phổ biến quy định pháp luật, không nhằm thay thế cho bất kỳ ý kiến/nhận định pháp lý chuyên sâu nào trong bất kỳ vụ việc cụ thể nào. Trường hợp cần được tư vấn chi tiết hơn về các vấn đề liên quan, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua thông tin bên dưới:
CÔNG TY LUẬT TNHH LEGAL HOUSE & PARTNERS
Email: support@legalhouse.vn
Điện thoại: 0918103030
Địa chỉ: Số 2 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh